Thư mục về Việt Nam thời Pháp thuộc
I. LỊCH SỬ, XÃ HỘI THỜI KỲ PHÁP THUỘC VỚI NGÀNH THƯ VIỆN VÀ HOẠT ĐỘNG THƯ MỤC TẠI VIỆT NAM
* Khái quát lịch sử thời Pháp thuộc:
- Thời kỳ thuộc Pháp là thời kỳ nước ta bị đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp giai đoạn từ 1858 - 1945.
- Ngày 01/09/1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu thời kì xâm lược và thống trị thực dân ở Việt Nam.
+ Từ tháng 02/1859 đến 1879, Pháp liên tiếp đánh chiếm và xác lập được bộ máy cai trị ở Nam Kì.
+ Từ năm 1882, Pháp mở rộng xâm lược ra phía Bắc.
+ Tháng 08/1883, nhà Nguyễn kí Hiệp ước thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Pháp đã xác lập được bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
* Đặc điểm xã hội thời Pháp thuộc:
- Về chính trị: Trong thời gian này thực dân Pháp đã thi hành đường lối, chính trị phản động, chia rẽ các dân tộc để cai trị.
- Về kinh tế: Thi hành chính sách bần cùng hóa, đẩy nông dân vào bước đường cùng, không có ruộng đất để cày, phải làm phu trong các đồn điền, hầm mỏ.
- Về văn hóa giáo dục: Thực hiện chính sách ngu dân cho đến cách mạng tháng Tám thành công 90% nhân dân mù chữ. Trong thời kỳ này xuất bản phẩm cũng được kiểm duyệt vô cùng gắt gao, nội dung chủ yếu mang tính phản động, cấm lưu hành lưu trữ các tài liệu của Mác – xít.
* Ngành Thư viện và hoạt động Thư mục thời Pháp thuộc:
Để tiện cho việc đô hộ người Pháp đã thâm nhập, nghiên cứu các lĩnh vực ngôn ngữ, dân tộc, văn hóa… tại Việt Nam để từ đó tạo ra bốn sự tác động sâu sắc đến quá trình phát triển của ngành Thư viện và hoạt động Thư mục:
- Sự thâm nhập vào nước ta công nghệ ấn loát bằng ty pô (in bằng cách sắp chữ rời).
- Sự phát triển của ngôn ngữ: thâm nhập của tiếng Pháp và xuất hiện của chữ Quốc ngữ.
Ngoài sự xuất hiện của các sách, báo chữ Pháp và các bản thư mục chữ Pháp thì ta có thể nhắc lại trong thời kỳ này để tiến hành chính sách thực dân, người Pháp đã tổ chức đội ngũ truyền giáo của đạo Cơ Đốc xâm nhập vào quần chúng. Trong quá trình truyền giáo các giáo sĩ phương Tây đã tìm cách ghi âm Tiếng Việt và phiên âm bằng chữ cái Latin (phải kể đến cố giáo sĩ Alecxandre Rhodes có đóng góp nhất định trong công cuộc này). Để rồi loại chữ dần dần thay thế chữ Hán – Nôm để ghi chép, có thể kể đến các tài liệu viết bằng chữ Quốc ngữ sau này.
- Pháp luật về thư viện xuất hiện.
Có nhiều văn bản liên quan đến thư viện xuất hiện trong thời kỳ này như:
+ Nghị định Toàn quyền ngày 29/10/1917 qui định việc tổ chức kiểm tra thường xuyên các hồ sơ lưu trữ do một chuyên viên bảo quản văn tư cổ tự học (archiviste paleographe) thực hiện: Điều khoản 3, đoạn 5 nói về rà soát lại việc tổ chức các thư viện công cộng hiện tồn tại và tạo điều kiện thành lập những thư viện mới đọc tại chỗ hoặc cho mượn về nhà.
+ Nghị định Toàn quyền ngày 29/11/1918 trao cho ông Gi ám đốc Nha lưu trữ hồ sơ và thư viện nhiệm vụ:
1. Thành lập Thư viện Trung ương ở Hà Nội.
2. Kiểm tra lại việc tổ chức các thư viện hiện có và gây dựng các thư viện mới.
+ Nghị định ngày 29/06/1919 xác định qui chế tổng quát của Thư viện trung ương Hà Nội.
- Ngành thư viện qua các thời kì cũng có được sự quan tâm nhất định.
Điều đó được thể hiện qua cách người Pháp xây dựng bốn thư viện chính:
+ Thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ.
+ Thư viện Viện nghiên cứu khoa học Đông Dương.
+ Thư viện Hội nghiên cứu Đông Dương.
+ Thư viện Trung ương tại Hà Nội (về sau có cơ sở tại Sài Gòn).
Chưa kể đến các thư viện khác như thư viện Pháp – Việt, thư viện Nam Định…
Ngoài ra, các đô đốc kiêm thống đốc Nam kỳ cũng không bỏ qua vấn đề thư viện, mặc dù vẫn phải lo bình định, tổ chức nền hành chính mới. Trong đống hồ sơ văn thư còn lưu lại, người ta thấy các đô đốc nhiều lần muốn tập hợp những cuốn sách hay, chọn lựa một số tạp chí, xuất bản định kỳ…
Ở Bắc kỳ, tại Phủ thống sứ cũng có một bộ phận phụ trách về thư viện và lưu trữ hồ sơ văn tư.
Vào ngày 27/10/1914 ông Domart thủ thư kiêm chuyên viên lưu trữ còn đề nghị biến thư viện Phủ Thống sứ thành thư viện hoàn toàn mang tính chất hành chính bằng cách loại bỏ các cuốn tiểu thuyết và tổ chức công tác lưu trữ co có phương pháp.
II. MỘT SỐ BẢN THƯ MỤC VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC
Từ thế kỷ XVIII-XIX, người Pháp chú ý nghiên cứu về địa lý, tài nguyên, dân tộc học, ngôn ngữ, phong tục... đồng thời biên soạn một số thư mục nhằm thông tin về những tài liệu đó phục vụ cho việc xâm lược và đặt ách thống trị lên các nước ở Đông Dương.
Trong các thư mục được biên soạn thời đó (xuất bản ở Pháp hoặc ở Việt Nam) có thể chia ra làm 2 dòng chủ yếu:
+ Thư mục tổng hợp và chuyên đề về Việt Nam và Đông Dương nói chung.
+ Thư mục “Thống kê đăng kí” từ khi có chế độ lưu chiểu văn hóa phẩm ở Đông Dương.
Có thể kể đến một số thư mục sau:
* Thư mục tổng hợp:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX người Pháp đã biên soạn một số thư mục tổng hợp về Đông Dương. Các thư mục này ra đời nối tiếp nhau phản ánh một cách có hệ thống, đầy đủ những tài liệu được xuất bản ở Pháp và nhiều nước khác có nội dung nói về Đông Dương với mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu sâu, toàn diện về một xứ thuộc địa của họ. Đó là:
- 1862: “Bibliographie Annamique” (Thư mục An nam) của Bell Combe (Hội viên hội nhân chủng học Pháp), xuất bản ở Paris.
- 1867: “Bibliographie Annamite” (Thư mục An nam) của Barbie du Bocage (Phó thư ký Hội địa lý Pháp) – thư mục này in kèm trong tạp chí Revue Maritne et coloniale (Lãnh hải và thuộc địa).
Thư mục chia làm 5 phần:
+ Phần I : Tập hợp 257 cuốn sách có nội dung nói về Việt Nam - Đông Dương được xuất bản từ 1628-1867 (xếp theo vần chữ cái tên tác giả, hoặc tên sách).
+ Phần II: Gồm các bài trích báo, tạp chí và những bản sưu tập lớn về các cuộc hành trình: hàng ngàn bài trích của 27 tờ báo và tạp chí (xếp theo từng năm).
+ Phần III: Liệt kê các tài liệu của cơ quan lưu trữ quốc gia Pháp ở Paris và những tài liệu viết tay khác có liên quan đến Đông Dương.
+ Phần IV: Địa đồ và bản đồ
+ Phần V: Bảng tra cứu tìm tên tác giả.
- 1880: “Mục lục những tác phẩm xuất bản từ 1868 trở đi” do Ủy ban nông nghiệp và kỹ nghệ Pháp biên soạn nói về Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên.
- 1889: “Bibliographie de Lindochine” (Thư mục Đông Dương) của A.Landes và A.Folliet thu thập những sách nói về Đông Dương xuất bản từ 1880 -1889.
- 1912 - 1915: “Bibliographie Indochinnca” (Thư mục Đông Dương) của Henri Cordier, thu thập những tài liệu trước năm 1913, trong đó là những tài liệu đã có trong các bản thư mục trước đây và bổ sung thêm. Bộ thư mục này chia làm 4 quyển:
+ Quyển 1: gồm các tài liệu nói về Miến Điện, Atssan (1 tỉnh của Ấn Độ), Thái Lan, Lào.
+ Quyển 2 : Nói về bán đảo Mã Lai.
+ Quyển 3, Quyển 4: Nói về các nước ở Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) chủ yếu là tài liệu về Việt Nam.
- 1922: “Pour mieux connaitre de Indochine: Essai dune bibliographie” (để hiểu biết hơn về Đông Dương, sơ thảo một thư mục) của Paul Boudet.
- 1929: “Bibliographie de Lindochine Francaise” 1913-1926 (Thư mục Đông Pháp) của hai tác giả Paul Boudet và Remi Bourgeois. Sau đó ra tiếp tục các tập: 1927-1928-1929-1930.
- 1943 : tiếp tục “Thư mục Đông Pháp 1931-1935”- Phần 1
Bộ “Thư mục Đông Pháp” là một công trình thư mục lớn do Boudet và Bourrgeois, lúc đó là những người phụ trách Nha lưu trữ và Thư viện Trung ương Đông Dương chủ trì việc biên soạn, thu thập tài liệu nói về Đông Dương từ 1913-1935. Cũng như “Thư mục Đông Dương” vốn tài liệu trong “Thư mục Đông Pháp” bao gồm sách báo được lựa chọn rộng rãi từ các thư viện ở Đông Dương hoặc ở Pháp và nhiều nước khác.
“Thư mục Đông Pháp 1913-1935” được biên soạn thành 8 tập cho 4 thời kỳ với khoảng 2.500 trang.
+ Tài liệu 1913-1926: 1 tập
+ Tài liệu 1927- 1928-1929-1930: mỗi năm 1 tập.
+ Tài liệu 1931-1935: 3 tập
Tài liệu thời kỳ 1931-1935 mới ra được tập I (vào năm 1943), còn 2 tập sau chưa xuất bản được do hoàn cảnh của Đại chiến thế giới thứ II chi phối. “Thư mục Đông Pháp” được biên soạn là sự tiếp nối và có tiến bộ hơn “Thư mục Đông Dương” về mặt kỹ thuật biên soạn (sắp xếp tài liệu theo đề mục, trong mỗi đề mục, xếp tài liệu theo thứ tự chữ cái tên tác giả hoặc tên sách, phần hia có các bảng tra cứu,...).
* Thư mục chuyên đề:
Ngoài những thư mục tổng hợp như trên, những người Pháp và các tổ chức khoa học, văn hóa của họ còn biên soạn các thư mục chuyên đề.
- Thư mục dẫn giải về khảo cổ học Cao Miên và Chiêm Thành của Coedes.
- Thư mục về thực vật học Đông Dương của Petelot.
- Thư mục những nhà văn Đông Dương của Barquyssan.
- Thư mục lịch sử Viễn Đông của Gaspadone.
- Premiere etude sur Les soures Annamite de L’ history d’ Annam (Nghiên cứu bước đầu về lịch sử An Nam qua các nguồn tư liệu của An Nam) xuất bản tại Hà Nội do L. Cardiere và P. Pelliot biên soạn.
Thư mục chia làm 3 phần:
+ Phần giới thiệu: Trình bày những vấn đề liên quan đến nguồn tài liệu lịch sử Việt Nam. Tác giả đưa vào những nghiên cứu về thân thế sự nghiệp và tác phẩm của các nhà sử học tiêu biểu thuộc các triều đại cho đến đầu thế kỷ XX.
+ Phần thứ hai: danh mục các tài liệu lịch sử được xếp theo thứ tự “Bộ chữ Hán” với 175 bộ sách (có mô tả và chú thích)
+ Phần cuối: Bảng tra theo tên tác giả (75 tác giả)
- Bibliographie Annamite (Thư mục An Nam) do E. Gaspadone giới thiệu khái quát về sách Hán Nôm Việt Nam và phần riêng giới thiệu các tác phẩm của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú..
- Đông Dương sử học yếu thư mục lục do Naka Mychio xuất bản tại Tokyo (Nhật Bản).
- An nam thực lục (1932) trong “Bắc Kinh đô thư quán” do Phùng Thừa Quân biên soạn.
* Thư mục thống kê đăng ký:
Xuất phát từ chủ trương kiểm soát việc xuất bản ở Đông Dương cũng như để thu thập các tài liệu có giá trị đưa về Pháp, ngày 29 tháng 11 năm 1917 Toàn quyền Albert Saraut ký thành lập Nha văn khố và Thư viện Đông Dương đặt tại Hà Nội và quy định chức năng của cơ quan này. Paul Boudet được bổ nhiệm làm giám đốc Nha văn khố và Thư viện Đông Dương, quản lý các kho sách:
- Kho Trung ương ở Hà Nội.
- Kho phủ thống đốc Nam kỳ ở Sài Gòn.
- Kho phủ khâm sứ Trung kỳ ở Huế.
- Kho phủ Khâm sứ Cao Miên ở Pnong-Pênh.
- Kho phủ khâm sứ Lào ở Viên Chăn.
Năm 1921 Toàn quyền Đông Dương đã ra sắc lệnh quy định chế độ nộp lưu chiểu các ấn phẩm xuất bản ở Đông Dương.
Từ năm 1922, thực hiên quyết định lưu chiểu toàn liên bang Đông Dương, kho lưu trữ và thư viện đều nhận được mỗi tên sách 2 bản. Trên cơ sở thu nhận ấn phẩm lưu chiểu, thư viện Trung ương Đông Dương biên soạn và xuất bản thư mục và thống kê đăng ký hàng năm với tên “Liste des imprimes depose au serviese du depot legal” (Danh mục các ấn phẩm nộp lưu chiểu). Thư mục này phản ánh tài liệu xuất bản trên toàn Đông dương bao gồm các loại hình ấn phẩm định kỳ, không định kỳ, bản đồ. Xét về mặt phản ánh tài liệu Việt Nam thì thư mục này phản ánh đều đặn, khá đầy đủ các tài liệu của quốc gia nên thư mục này cũng được coi như loại “Thư mục quốc gia” (tuy không hoàn toàn đúng với ý nghĩa của thuật ngữ này) trong giai đoạn thuộc Pháp.
“Danh mục các ấn phẩm nộp lưu chiểu” chia thành 2 phần:
+ Phần I: Ấn phẩm định kỳ: thống kê các báo, tạp chí, tập san xuất bản ở Bắc Kỳ, Cao Miên, Lào.
+ Phần II: Ấn phẩm không định kỳ: thống kê các sách, bản đồ xuất bản ở ba nước Đông Dương.
Hai loại tài liệu trên không được sắp xếp theo môn loại mà xếp theo ngôn ngữ:
- Tài liệu xuất bản bằng tiếng Pháp.
- Tài liệu xuất bản bằng tiếng Việt, Miên, Lào.
Mỗi năm ra 2 cuốn, định kỳ 6 tháng.
Thư mục này cũng phản ánh tình hình xuất bản thời thuộc Pháp, số lượng sách không nhiều, mỗi cuốn (phản ánh tài liệu xuất bản trong 6 tháng) chỉ có trên dưới 300 tên sách, mà phần sách tiếng Việt lại chỉ chiếm khoảng 10%.
Thư mục thống kê đăng ký trên được xuất bản đều kỳ từ năm 1922 đến năm 1944.
III. Một vài điểm so sánh giữ Thư mục Việt Nam thời Pháp thuộc với Thư mục Việt Nam thời phong kiến
* Thư mục thời phong kiến:
- Số bản in khắc không đều dẫn đến hạn chế trong việc sử dụng rộng rãi.
- Sự sao chép qua nhiều người, nhiều thế hệ, nhiều thời đại khác nhau thông qua thu thập, thu góp, chỉnh lý dẫn đến sự sại lệch, nhiều dị bản, khó khăn trong việc xác định văn bản. Nhiều công trình chỉ có độc bản do phương thức chép tay.
- Về nội dung chủ yếu là văn sử, triết học, Phật giáo… sách về kỹ thuật, toán, y, dược học tuy có phát triển nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ so với sách văn học. Nhiều công trìn được trình bày với nội dung khó phân biệt sách văn sử, một quyển sách đề cập đến nhiều vấn đê khác nhau.
- Thư tịch chủ yếu là thư tịch Hán Nôm, một số công trình bằng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ.
* Thư mục thời Pháp thuộc:
- Số bản thư mục được biên soạn phong phú nhiều thể loại và hình thức.
- Về nội dung thì đa dạng hơn so với thời kỳ trước (thời phong kiến). Đặc biệt tập trung nhiều vào các vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội… để giúp ích cho việc cai trị thuộc địa của Pháp.
- Các công trình thư mục có quy tắc nhất định tuy còn hơi lộn xộn và còn gặp nhiều vấn đề khúc mắc, nhưng nhìn chung có điểm nổi bật là có quy trình nghiêm ngặt hơn trong công tác ghi chép tài liệu.
- Các thư mục tập trung chủ yếu bởi ngôn ngữ là tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ.
IV. KẾT LUẬN
Nhìn chung, hoạt động thư mục thời thuộc Pháp khá phong phú với nhiều loại hình thư mục được biên soạn. Thư mục đã có ý nghĩa quan trọng trong việc phục vụ nghiên cứu và quản lý hoạt động xuất bản ở Đông Dương. Song do đặc điểm lịch sử xã hội, hoạt động thông tin thư mục nói chung và tài liệu được biên soạn ra trong thời gian này nói riêng chủ yếu phục vụ cho mục đích thống trị lâu dài ở Đông Dương của thực dân Pháp. Các thư mục là công cụ phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định chính sách cai trị và bóc lột kinh tế của chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên các thư mục trên cho đến nay còn có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu khoa học. Chúng là cơ sở để tra cứu các nguồn tài liệu về lịch sử xã hội Việt Nam và Đông Dương nói chung thời thuộc Pháp. Các thư mục trên rất có ích cho các nhà Việt Nam học, Hà Nội học, sử học, kinh tế học, xã hội học... ở nước ta.
____________________________________________________
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Thị Bích Liên – Bài giảng chương trình môn học Hoạt động thư mục, -.H: Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
[2] Nguyễn Ngọc Mô (2002), Tìm hiểu lịch sử ngành thư viện – lưu trữ hồ sơ Việt Nam .-H: NXB Thế giới.
____________________________________________________
Biên soạn và tổng hợp: Hải Anh.
Ngày đăng: 03/08/2020.
Ảnh bìa: wdl.